list error: <br /> list (
help)
12 × pháo
30,5 xentimét (12,0 in) SK L/50 14 × pháo
15 cm (5,9 in) SK L/45 16 × pháo 8,8 cm (3,5 in) SK L/45
list error: <br /> list (
help)
đai giáp chính: 300 mm (12 in);
sàn tàu: 63 mm (2,5 in);
tháp pháo: 300 mm (12 in);
SMS Ostfriesland là một
thiết giáp hạm dreadnought của
Hải quân Đế quốc Đức trong
Chiến tranh Thế giới thứ nhất, là chiếc thứ hai trong
lớp Helgoland bao gồm bốn chiếc. Ostfriesland được đặt lườn vào
tháng 10 năm
1908 tại xưởng tàu của hãng
Kaiserliche Werft ở
Wilhelmshaven; nó được hạ thủy vào ngày
30 tháng 9 năm
1909 và đưa ra hoạt động cùng hạm đội vào ngày
1 tháng 8 năm
1911. Con tàu được trang bị mười hai khẩu pháo 30,5 xentimét (12,0 in) trên sáu tháp pháo nòng đôi, và đạt được vận tốc tối đa 21,2 hải lý trên giờ (39,3 km/h; 24,4 mph). Ostfriesland được phân về Hải đội Chiến trận 1 thuộc
Hạm đội Biển khơi Đức trong hầu hết quãng đời hoạt động của nó, kể cả trong Thế Chiến I.Cùng với ba chiếc tàu chị em cùng lớp
Helgoland,
Thüringen và
Oldenburg, Ostfriesland tham gia mọi hoạt động hạm đội chủ yếu tại
Bắc Hải trong Thế Chiến I chống lại
Hạm đội Grand Anh Quốc, bao gồm
Trận Jutland vào ngày
31 tháng 5-
1 tháng 6 năm
1916, trận hải chiến lớn nhất của cuộc chiến tranh này. Con tàu cũng hoạt động tại
biển Baltic chống lại
Hải quân Nga. Nó đã có mặt trong
Trận chiến vịnh Riga không thành công vào
tháng 8 năm
1915.Sau khi Đức thua trận vào
tháng 11 năm
1918, hầu hết lực lượng Hải quân Đức bị chiếm giữ tại
Scapa Flow vào lúc diễn ra cuộc thương lượng hòa bình. Tuy nhiên, bốn chiếc thuộc lớp Helgoland được phép ở lại Đức, nên tránh khỏi bị
đánh đắm tại Scapa Flow. Cuối cùng chúng cũng được giao cho các nước Đồng Minh thắng trận như những
chiến lợi phẩm. Ostfriesland được chuyển cho
Hải quân Hoa Kỳ, và bị đánh chìm để thử nghiệm sức mạnh không quân ngoài khơi
Virginia Capes vào
tháng 7 năm
1921.